Văn hóa Đông Sơn - Chiến tranh và Hòa bình (kỳ 18): Dặm dài truy tìm những thanh kiếm Đông Sơn kỳ bí

Thứ Năm, 19/06/2025 06:29 GMT+7

Google News

Kiếm và dao găm được ví như khẩu súng ngắn dành cho sĩ quan chỉ huy hiện nay. Trong thời Đông Sơn cũng vậy, kiếm và dao găm là vũ khí riêng của thủ lĩnh chứ không phải là vũ khí trang bị cho chiến binh bình thường.

1. Để tạo hấp dẫn của chủ đề "Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất" kỳ này, tôi muốn dành phần đầu chuyên mục kiếm và dao găm Đông Sơn để nói về chuyện những cây kiếm độc đáo của thủ lĩnh Đông Sơn nhóm Tây Âu mà tôi đã theo đuổi 20 năm nay với ý muốn nhận chân về Thục Phán An Dương Vương và các tướng lĩnh đã theo ông.

Năm 1998, lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn khảo cổ học một thông báo ngắn của PGS Hoàng Xuân Chinh, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam, về những chiếc kiếm lưỡi sắt chuôi đồng có gắn hình thuyền đào được trong bối cảnh mộ táng mang các đồ Đông Sơn quen thuộc khác như rìu, giáo, ốp tay... Theo ông, đó là những thanh kiếm Đông Sơn đáng được chú ý.

Một dạng kiếm kiểu Chiến Quốc tồn tại trong mộ táng văn hóa Đông Sơn với kiểu tay cầm đúc liền có hai khoanh ngấn (Sưu tập Đặng Tiến Sơn, Hà Nội)

Đây chính là thời điểm khảo cổ học Đông Sơn có một phát hiện lớn, đó là khu mộ quý tộc Đông Sơn rất nhiều đồ cao cấp như "từ trên trời rơi xuống" bung ra ở Xuân Lập, Thọ Xuân (Thanh Hóa). Tôi nghĩ rằng những chiếc kiếm mà Hoàng Xuân Chinh công bố, tuy không nói cụ thể nơi phát hiện, đã xuất phát từ đây.

Trước đó, khi nói về kiếm Đông Sơn mọi người thường nhắc đến thanh kiếm đồng trong mộ thân cây khoét rỗng Việt Khê. Đây là kiếm đúc toàn bộ bằng đồng theo kiểu cách kiếm thời Chiến Quốc với lưỡi hình lá, mũi nhọn chính giữa, rìa sắc hai bên và tay cầm có khoanh ngấn làm điểm tựa cho chỗ buộc dây. Nói chung, kiếm loại này đều ngắn, chỉ dưới 60cm. Sau này, trong một số mộ thân cây khoét rỗng và mộ gạch khác cũng đã xuất hiện loại kiếm tương tự kiếm Việt Khê.

2. Sự xuất hiện loại kiếm lưỡi sắt chuôi đồng có gắn hình thuyền ở đốc là hiện tượng đặc biệt rất đáng chú ý. Tôi bắt đầu dõi theo những phát hiện về loại kiếm này từ những năm đầu thành lập Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á (1999).

Những thanh kiếm Đông Sơn trưng bày tại Bảo tàng "Rừng Trong Phố" (Thanh Hóa) với phần chuôi đồng đúc liền những bản hình thuyền ở đốc chuôi kiếm

Trong một dịp vào thăm Bảo tàng "Rừng Trong Phố" (Thanh Hóa) đầu những năm 2000, tôi được chủ nhân bảo tàng trân trọng giới thiệu sưu tập hàng chục chiếc kiếm cùng loại như kiếm đã được PGS Hoàng Xuân Chinh công bố trong Hội nghị 1998. Tôi đã dừng một tuần để nghiên cứu ngay sưu tập quý hiếm này, được chính chủ nhân vốn từng là giám đốc một Công ty xây lắp ở Thanh Hóa xác nhận đã là người trực tiếp phát hiện và gom nhặt dưới lòng đất Thường Xuân khi nhận thầu san gạt một đoạn đường trong huyện. Ông cũng ghi nhận với tôi về sự phân bố chủ yếu loại kiếm này ở vùng núi phía tây Thanh Nghệ - vùng Đông Sơn mà tôi thường gọi là loại hình Làng Vạc, dựa trên công cuộc phát hiện, khai quật, nghiên cứu của khảo cổ học Việt Nam, Nhật Bản từ 1972 đến nay.

Cũng từ đó, năm 2001, ngay sau khi ra quyết định thành lập Bảo tàng Phạm Huy Thông trực thuộc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, tôi đã tiến hành nghiên cứu và thu gom hiện vật và những thông tin liên quan đến hệ thống kiếm này.

Kho kiếm Đông Sơn chuôi đồng lưỡi sắt (hình trái) và đặc tả phần hình thuyền đúc liền trên đốc chuôi kiếm (hình phải). Sưu tập của Bảo tàng Phạm Huy Thông, Kim Bôi, Hòa Bình

Ngay từ khi bung ra khu mộ táng quý tộc Đông Sơn ở Xuân Lập, Thanh Hóa, vốn đã là người khai quật và nghiên cứu kỹ các địa điểm Đông Sơn nổi tiếng ở vùng ngã ba hạ lưu sông Mã, sông Chu như Đông Sơn, Thiệu Dương, Quỳ Chử..., tôi nhận ra sự giàu có bất bình thường của khu mộ Xuân Lập cũng như Làng Vạc. Bởi theo logic tiến hóa, cần phải có quá trình phát triển đến cường thịnh của các làng trồng lúa lớn trước Đông Sơn mới đủ tích lũy cho cuộc bùng nổ tài sản Đông Sơn như vậy. Các nhà khảo cổ đã gắng sức điều tra khai quật xung quanh Làng Vạc, Xuân Lập để làm rõ điều này, nhưng vô vọng. Điều này chứng tỏ lý thuyết và lập luận của tôi có lý: Đây là các khu định cư mới của quý tộc Đông Sơn trước sức ép của kẻ thù ngoại tộc đã chiếm lĩnh những vùng Đông Sơn trồng lúa truyền thống dưới đồng bằng, tương tự những điểm sơ tán của nhà Trần trước quân Nguyên.

3. Trong 20 năm ròng, tôi một mặt đi gom nhặt tư liệu từ các nhà sưu tầm cũng như các bảo tàng trong và ngoài nước về di vật Đông Sơn ở Xuân Lập, Làng Vạc, mặt khác dõi theo các dấu tích Đông Sơn miền núi giàu có bất thường, từ các cụm mộ lớn ở Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ... đến Miếu Môn (Chương Mỹ), Chi Nê (Hòa Bình), Đá Hàn (Ninh Bình), Làng Vực (Vĩnh Ninh, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), Thạch Thành, Cẩm Thủy vào đến Xuân Lập (Thọ Xuân) rồi qua Thường Xuân vào Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp với trọng tâm Làng Vạc ở Thái Hòa, sông Hiếu xứ Nghệ.

Văn hóa Đông Sơn - Chiến tranh và Hòa bình (kỳ 18): Dặm dài truy tìm những thanh kiếm Đông Sơn kỳ bí - Ảnh 5.

Một trong những thanh kiếm Đông Sơn còn khá nguyên vẹn cả phần chuôi đồng lẫn phần lưỡi sắt (Sưu tập của Bảo tàng Phạm Huy Thông, Kim Bôi, Hòa Bình)

Kiếm lưỡi sắt chuôi đồng chủ yếu tập trung ở vùng miền núi Thanh Nghệ với mật độ cao ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp. Cho đến nay đã ghi nhận phát hiện ở Việt Nam trên 60 chiếc, trong đó Bảo tàng Phạm Huy Thông đang sở hữu 18 tiêu bản. Những khung cảnh phát hiện cụ thể xác nhận chúng gắn liền với bộ di vật Đông Sơn điển hình, có tuổi từ khoảng thế kỷ 2 trước Công nguyên đến thế kỷ 1 sau Công nguyên.

Trong những phần sau, tôi sẽ cùng các bạn đi sâu hơn về nguồn cội và phân bố của loại kiếm sĩ quan Đông Sơn rất đáng chú ý này.

 (Còn nữa)

TS Nguyễn Việt

Đọc thêm
  • Xem thêm  ›